Già hóa dân số là hiện tượng mang tính toàn cầu. Ở Việt Nam, già hóa dân số đang diễn ra nhanh chóng. Theo Kết quả của Tổng Điều tra, dân số Việt Nam đang già hóa với tốc độ nhanh chưa từng thấy. Cả nước có 11,4 triệu người cao tuổi từ 60 tuổi trở lên, chiếm 11,86% tổng dân số, và chỉ số già hóa tăng từ 35,9% vào năm 2009 lên 48,8% vào năm 2019. Do già hóa dân số nên mô hình bệnh tật cũng thay đổi, với sự gia tăng nhanh chóng của các bệnh mạn tính, các bệnh thoái hóa, trong đó có sa sút trí tuệ (SSTT).
1. Sa sút trí tuệ là gì?
- Sa sút trí tuệ là một hội chứng suy giảm trí nhớ, suy nghĩ, hành vi và khả năng thực hiện các hoạt động hàng ngày. Bệnh này không chỉ tác động xấu đến thể chất, tâm lý xã hội và kinh tế của người bị sa sút trí tuệ mà còn cả với những người chăm sóc họ.
- Mặc dù chứng sa sút trí tuệ chủ yếu ảnh hưởng đến người lớn tuổi nhiều hơn, song bệnh này lại không phải là một quá trình lão hóa bình thường mà còn là hậu quả một số yếu tố bệnh tật. Bệnh Alzheimer là dạng sa sút trí tuệ phổ biến nhất và có thể chiếm 60-70% các trường hợp.
- Ngoài ra, những yếu tố nguy cơ gây sa sút trí tuệ còn có thể do béo phì và tăng huyết áp ở tuổi trung niên; huyết áp thấp ở người cao tuổi; đái tháo đường; nhồi máu não đa ổ; tăng mỡ máu; thói quen uống rượu hoặc/và dùng chất kích thích; tiền sử gia đình có người mắc hội chứng sa sút trí tuệ; trầm cảm…
2. Dấu hiệu của sa sút trí tuệ:
Sa sút trí tuệ ảnh hưởng đến mỗi người theo một cách khác nhau, tùy thuộc vào tác động của bệnh và tính cách của người đó trước khi bị bệnh. Các dấu hiệu và triệu chứng liên quan đến chứng sa sút trí tuệ có thể được hiểu theo ba giai đoạn.
- Giai đoạn đầu: Các triệu chứng phổ biến bao gồm hay quên, không rõ ngày tháng, trở nên lạc lõng giữa những nơi quen thuộc.Tuy nhiên, mọi người thường bỏ qua giai đoạn đầu của bệnh do các biểu hiện không rõ ràng, mới ở mức độ nhẹ nên rất dễ lầm tưởng với các triệu chứng “đãng trí” bình thường chẳng hạn như phụ nữ hay quên sau sinh do thiếu sắt hoặc khả năng nhớ kém hơn khi về già. Song chủ quan và sai lầm trong việc chẩn đoán này làm mất đi cơ hội được điều trị và phục hồi của người bệnh.
- Giai đoạn giữa: Khi sa sút trí tuệ tiến triển đến giai đoạn giữa, các dấu hiệu và triệu chứng trở nên rõ ràng hơn bao gồm không thể nhớ các sự kiện gần hoặc tên mọi người, trở nên lạc lõng trong nhà, gặp khó khăn trong giao tiếp, cần được người khác hỗ trợ trong việc chăm sóc bản thân, hay đi lang thang và lặp đi lặp lại một câu hỏi.
- Giai đoạn muộn: Giai đoạn cuối của sa sút trí tuệ, người bệnh gần như sống phụ thuộc vào gia đình vì không thể hoạt động. Các triệu chứng bao gồm rối loạn trí nhớ nghiêm trọng, không biết về thời gian và địa điểm, khó nhận ra người thân và bạn bè, ngày càng cần người khác chăm sóc cho mình, gặp khó khăn khi đi bộ, thường xuyên kích động và gây hấn.
3. Biến chứng của sa sút trí tuệ:
Sa sút trí tuệ nếu không được điều trị nhằm giảm bớt sự tiến triển có thể gây ra các biến nghiêm trọng như:
- Dinh dưỡng kém: Nhiều người bị sa sút trí tuệ dẫn đến lười ăn hoặc bỏ ăn do mất phản xạ nhai, nuốt. Tình trạng này khiến cơ thể bị thiếu hụt hoặc suy dinh dưỡng và càng làm cho chứng sa sút trí tuệ thêm nghiêm trọng, cũng như làm giảm tuổi thọ.
- Viêm phổi: Tình trạng khó nuốt do sa sút trí tuệ làm tăng nguy cơ mắc nghẹn hoặc hút thức ăn vào phổi, có thể gây tắc thở và viêm phổi.
- Không thể tự chăm sóc bản thân: Nếu sa sút trí tuệ tiến triển, người bệnh sẽ không thể sinh hoạt bình thường như tắm, mặc quần áo, chải tóc hoặc đánh răng, đi vệ sinh, dùng thuốc theo chỉ định mà không có người thân hỗ trợ.
- Mất an toàn: Một số tình huống hàng ngày có thể gây ra các vấn đề an toàn cho người bị sa sút trí tuệ như lái xe, nấu ăn và đi bộ một mình.
- Tử vong: Sa sút trí tuệ giai đoạn cuối có thể bị nhiễm trùng dẫn đến hôn mê và tử vong.
4.Yếu tố nguy cơ:
4.1. Yếu tố nguy cơ không thay đổi được:
- Tuổi tác. Nguy cơ tăng lên khi già đi, đặc biệt là sau 65 tuổi. Tuy nhiên, chứng sa sút trí tuệ không phải là một phần bình thường của lão hóa và chứng mất trí nhớ có thể xảy ra ở những người trẻ tuổi.
- Tiền sử gia đình. Có tiền sử gia đình mắc chứng sa sút trí tuệ khiến thế hệ sau có nguy cơ mắc bệnh cao hơn. Tuy nhiên, nhiều người có tiền sử gia đình không bao giờ phát triển các triệu chứng và nhiều người không có tiền sử gia đình nhưng lại bị sa sút trí tuệ.
- Hội chứng Down. Ở tuổi trung niên, nhiều người mắc hội chứng Down khởi phát bệnh Alzheimer sớm so với người bình thường.
4.2. Yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được:
- Ăn kiêng và tập thể dục. Nghiên cứu cho thấy thiếu tập thể dục làm tăng nguy cơ mắc chứng sa sút trí tuệ. Và mặc dù không có chế độ ăn kiêng cụ thể nào làm giảm nguy cơ mắc chứng sa sút trí tuệ, nhiều nghiên cứu chỉ ra tỷ lệ mắc chứng mất trí nhớ cao hơn ở những người ăn chế độ ăn không lành mạnh so với những người theo chế độ ăn kiểu Địa Trung Hải giàu sản phẩm, ngũ cốc và hạt.
- Hạn chế bia rượu.
- Kiểm soát yếu tố nguy cơ tim mạch bao gồm huyết áp cao (tăng huyết áp), cholesterol (chất béo) cao, tích tụ chất béo trong thành động mạch (xơ vữa động mạch) và béo phì.
- Tránh phiền muộn, stress, mặc dù cơ chế chưa được hiểu rõ nhưng trầm cảm ở giai đoạn cuối đời có thể cho thấy sự phát triển của chứng sa sút trí tuệ.
- Bệnh tiểu đường có thể làm tăng nguy cơ mắc chứng sa sút trí tuệ, đặc biệt là khi bệnh tiểu được được kiểm soát kém.
- Không hút thuốc. Hút thuốc có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh sa sút trí tuệ và các bệnh về mạch máu.
- Thiếu vitamin và dinh dưỡng. Hàm lượng vitamin D, vitamin B6, vitamin B12 và vitamin B9 thấp có thể làm tăng nguy cơ mắc chứng sa sút trí tuệ.
Tìm hiểu thêm về nguyên nhân gây sa sút trí tuệ tại đây.
Nguồn: LinhQ tổng hợp
LinhQ – Thảo mộc Dược thực, Nhà Phát triển Hệ thống Phân phối Dược phẩm Thảo mộc Đa kênh.
Fanpage: LinhQ – Thảo mộc Dược thực
Hotline: 08 6765 9099
Email: hotro@linhquy.com
Address: 195 Đội Cấn, Ba Đình, Hà Nội